(Ảnh minh họa: Dân Trí)
|
Tại sao phải cải táng?
Xin trích một đoạn
trong “Việt Nam Phong tục” của Phan Kế Bính: “… Cải táng có nhiều cớ.
Một là vì nhà nghèo,
khi cha mẹ mất, không tiền lo liệu, mua tạm một cỗ ván xấu, đợi xong ba năm thì
cải táng, kẻo sợ ván hư nát thì hại đến di hài.
Hai là vì chỗ đất mối
kiến, nước lụt thì cải táng.
Ba là vì, các nhà địa
lý phong thủy xưa cho biết, thấy chỗ mả vô cớ mà sụt đất hoặc cây cối ở trên mả
tự nhiên khô héo, hoặc trong nhà có kẻ dâm loạn điên cuồng, hoặc trong nhà đau
ốm liên miên, hoặc trong nhà có kẻ nghịch ngợm, sinh ra kiện tụng lôi thôi, thì
cho là tại đất mà cải táng.
Bốn là, những người
muốn cầu công danh phú quý, nhờ thầy địa lý tìm chỗ cát địa mà cải táng. Lại có
người thấy nhà khác phát đạt, đem mả nhà mình táng gần vào chỗ mả nhà kia, để
cầu được hưởng dư huệ…”.
Phong tục cải táng
khởi nguồn từ thời Bắc thuộc khi quan lại và thương lái Trung Quốc chết tại Nam
mà gia đình có nhu cầu đưa xương cốt về chính quốc. Về sau thành lệ và thành
phong tục, cũng do yếu tố địa lý Đồng bằng Bắc Bộ phần nhiều là đất pha cát phù
sa, khi chôn người chết xuống phần nhiều là tiêu hết thịt (thậm chí có chỗ đất
còn hao cả xương nếu không cải táng thì chỉ còn đất) mà cát phù sa thì bẩn nên
phải tắm rửa thay áo.
Trong khi đó gỗ áo
quan chôn trên đất tại Đồng bằng Bắc Bộ nhanh hỏng và hay sập ván thiên bởi mùa
lũ thì đầy nước, mà mùa cạn thì khô, mối lại hay tụ lại trên chỗ đất cao (mồ mả
hay cao hơn ruộng) nên hay xông vào áo quan.
Nói chung, cải táng,
sang cát, bốc mộ là một phong tục lâu đời, là thể hiện cái tâm của người sống
với người thân đã khuất, an tâm với niềm tin… họ không bỏ người thân trong đất
ẩm, mà tặng họ một ngôi nhà mới đẹp đẽ, chắc chắn hơn.
Bằng cách bốc mộ giải
phóng linh hồn người thân khỏi mộ, người chết có thể biến đổi thành tổ tiên linh
thiêng, linh hồn có thể phù hộ cho gia đình được an lành.
Khi nào thì cải táng?
Theo phong tục, người
mất sau 3 năm thì cải táng được, cũng là lúc con cháu mãn tang, tức là hoàn
toàn hết để tang. Vì thế, việc cải táng thường được tiến hành sau 3 năm chôn
hung táng.
Tuy nhiên, hiện nay
thực tế môi trường địa lý và khí hậu có nhiều thay đổi, các hóa chất được sử
dụng nhiều trong đất để phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hiện tượng sau 3 năm xác
người đã qua đời chưa phân hủy diễn ra khá phổ biến, nên nhiều gia đình lựa
chọn giải pháp là để thời gian cải táng lâu hơn, từ 4 đến 5, có thể đến 7 năm
để tránh hiện tượng trên.
Năm để tiến hành cải
táng phải lựa chọn theo tuổi của người đã qua đời. Ngoài ra còn phải căn cứ
theo tuổi của trưởng nam trong nhà.
Thời gian tốt nhất
trong năm để tiến hành cải táng là từ cuối Thu đến trước ngày Đông Chí của năm.
Theo phong tục, thường nhờ thầy phong thủy xem tuổi của người đã qua đời và
tuổi trưởng nam để tìm ngày tốt.
Sau khi chọn được ngày
bốc mộ, cũng có thể chọn xem giờ bốc mộ, nhưng phải làm vào ban đêm hoặc sáng
sớm, khi không có ánh sáng mặt trời, tránh cho xương cốt gặp ánh sáng mặt trời
sẽ bị đen, bị hỏng.
Khi nào thì không nên
cải táng?
“Trong khi cải táng,
tục lại có ba điều là tường thụy (tức là mả phát tốt đẹp) mà không cải táng.
Một là, khi đào đất thấy có con rắn vàng thì cho là Long xà khí vật.
Hai là, khi mở quan
tài ra thấy có dây tơ hồng quấn quýt thì cho là đất kết.
Ba là, hơi đất chỗ đó
ấm áp, trong huyệt khô ráo không có nước hay là nước đóng giọt lại như sữa đều
là tốt. Khi nào gặp như thế thì phải lập tức lấp lại ngay.” (Trích "Việt
Nam phong tục" - Phan Kế Bính).
Theo quan niệm dân
gian, mộ kết là mộ đã thụ được Linh khí của Long mạch, tụ khí lại trong mộ và
làm cho con cháu trong dòng họ đó làm ăn thuận lợi, gia đình, dòng họ thuận hòa
và mạnh khỏe. Nhưng nếu bốc phải mộ kết thì ngược lại.
Có nhiều cách để kiểm
tra mộ kết như bằng các phương pháp Cảm xạ, ngoại cảm, cảm nhận trường khí…
Cũng có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thấy ngôi mộ đó càng ngày càng nở ra do
được tích tụ Linh khí của Long mạch, giống như những cái gò thường nổi lên do
hiện tượng dư khí của Long mạch trên cánh đồng.
Trên các ngôi mộ kết
thường cỏ mọc rất nhanh và xanh tốt. Người xưa dùng cách cắm những cành cây khô
vào những cuộc đất nghi có mộ kết, nếu những cành khô đó nẩy mầm xanh tốt thì
gần như chắc chắn rằng nơi đó có huyệt kết.
Một quan sát khác nữa
là nhìn những viên đá, bia mộ tại huyệt, nếu mộ kết tức là làm cho những viên
đá, bia mộ đó bóng loáng lên như được lau chùi bằng dầu bóng.
Khi gặp trường hợp mộ
kết thì tốt nhất là để nguyên không được dịch chuyển, tránh những ảnh hưởng
không tốt theo quan niệm dân gian.
Nếu bắt buộc phải di
dời vì lý do nào đó phải có những phương thức của Huyền môn và Phong thủy rất
phức tạp mới có thể di dời.
Khi mộ kết, thông
thường kết từ chân lên tới đầu, cũng có vài ngôi mộ do kết cấu của Long mạch và
của mộ sẽ kết theo chiều ngược lại. Có các dạng kết như kết mạng nhện, kết tơ
hồng, kết bang, kết chu sa… Có các màu từ xám đến trắng, hồng, đỏ như chu sa là
loại mạnh nhất.
Một loại khác người ta
thường hay nhầm với mộ kết là mộ bị phạm trùng. Có nhiều loại trùng nhưng biểu
hiện rõ nhất tại mộ là xác chôn qua nhiều năm không tan. Có những khu vực có
hàng loại mộ chôn tới hàng chục năm xác cũng còn gần như nguyên vẹn.
Các công việc tiến
hành như sau:
1. Chọn ngày giờ thực
hiện công việc:
Theo lịch Âm, tháng đủ
có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày. Ta cần phải căn cứ vào 24 tiết khí và nên
để ý là đầu tiết khí bao giờ cũng đi liền 2 trực giống nhau, một trực là ngày
cuối tháng, một trực là ngày đầu tháng.
12 trực Kiến - Trừ -
Mãn - Bình - Định - Chấp - Phá - Nguy - Thành - Thâu - Khai -Bế, mỗi ngày là
một trực.
Tuổi và ngày nên chọn
theo Tam hợp, Lục hợp, Chi đức hợp, Tứ kiểm hợp.Tránh các ngày Lục xung, Lục
hình, Lục hại.
Về Ngũ hành nên chọn
ngày tương sinh hay bình hòa, tránh chọn ngày tương khắc.
2. Chọn vị trí địa lý
để đặt:
Khi đã chọn lựa được
thời điểm tiến hành thì người trong gia đình sẽ phải chọn lựa một huyệt đất mới
để chuyển hài cốt sang. Tất nhiên không phải đất nào cũng an táng lập phần mộ
vĩnh cửu được.
Ngày xưa, điều kiện
đất đai còn rộng lớn thì việc này tương đối dễ dàng. Ngày nay, đất chật người
đông, diện tích đất dành cho người chết cũng rất hạn chế. Thường ở địa phương
sẽ tiến hành bố trí cho gia đình một huyệt đất mới ở cùng nghĩa trang nơi hung
táng.
Đối với gia đình phải bắt buộc chôn khi
địa phương an bài hoặc có sự chọn lựa trong khu vực đó thì làm
như sau:
- Đất chọn huyệt mộ là
nơi đất mới chưa từng bị chôn lấp, đào xới là tốt nhất. Khí đất của huyệt tươi tốt,
đất rắn chắc tươi tắn. Nếu là vùng đồng bằng thì đất tươi mịn, có mùi thơm, đào
lên phía dưới độ 6,70cm đất đặc quánh, có màu vàng nhạt hoặc màu nâu đậm hoặc
nên cùng mầu với đất khu vực bản địa. Nếu là miền sơn cước thì đất mịn màng,
tuy khô nhưng có màu vàng nhạt "nhưng không được quá khô".
- Kỵ nhất là huyệt đào
là nơi đất tơi xốp khô quá, "không tốt cho xương" hoặc đào lên ở đáy
huyệt nếu có mạch nước ngầm chảy xiết dưới huyệt "lâu dài rất dễ trôi mất
tiểu mất mộ" trừ khi dòng nước đó được xác định là " tụ huyệt long
thủy lộ" nếu đào có nước ít thì tốt nhưng không được chảy xiết và màu sắc
của nước trong, mùi thơm, tránh nước có mùi tanh nồng mùi hôi hoặc mùi khó
ngửi.
Những huyệt ở đồng
bằng thì nên có ít nước ở dưới huyệt, hoặc kị chôn đè lên huyệt cũ của người
khác "nếu phải chôn thì chỉ chôn bên cạnh".
- Ở các vùng nghĩa
trang nơi quy tập nhiều mộ, thường bị tình trạng quá tải về diện tích, các mộ
chen lấn nhau. Tránh huyệt bị các mộ xung quanh lấn chiếm trước mộ đè lên mộ,
hoặc các góc mộ khác chọc vào ngay trước phần mộ, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh
mộ. Nếu chọn được huyệt phía trước rộng thoáng, lại nhìn ra ao hồ hay sông suối
là đẹp nhất. Trường hợp đất đai quá hiếm không chọn được huyệt có phía trước
thoáng rộng thì tối thiểu cũng phải có một khoảng đất trống nằm ngay phía trước
huyệt mộ.
- Quan sát cẩn thận hệ
thống đường đi xung quanh huyệt. Nếu huyệt có đường đi đâm thẳng vào giữa hoặc
đâm xuyên sang hai bên thì chủ về phá bại không thể dùng. Đường đi sát ngay
phía sau huyệt cũng tối kỵ. Tốt nhất chọn huyệt nơi yên tĩnh xa cách với đường
đi lối lại quanh khu vực mộ.
- Ở vùng núi non thì
cần thẩm định huyệt theo những tiêu chí của địa lý. Huyệt tìm được những nơi
được bao bọc có long hổ hai bên ôm lấy huyệt, phía sau có cao sơn che chắn, phía
trước có minh đường thuỷ tụ thì tốt. Sau khi chọn được đất tiến hành xây cất
trước khi xây cất ta cũng làm lễ và chọn ngày giờ cẩn thận.
Chuyên gia Hoàng Công (UNESCO)
NGHĨA TRANG
SÀI GÒN THIÊN PHÚC
– VÙNG ĐẤT THIÊN VĨNH HẰNG.
GIÁ MỘ CẢI TÁNG BAO GỒM
ĐẤT + TIỀN XÂY DỰNG + PHỤ KIỆN KÈM THEO (CẶP LÂN, CHẬU HOA, LƯ HƯƠNG, HỘP
NHANG,VV…)
GIÁ TỪ 57 TRIỆU ĐẾN 67 TRIỆU/ 1 HUYỆT MỘ (TÙY VỊ TRÍ, XÂY ĐÁ TẤM HAY ĐÁ KHỐI).
GIÁ TỪ 57 TRIỆU ĐẾN 67 TRIỆU/ 1 HUYỆT MỘ (TÙY VỊ TRÍ, XÂY ĐÁ TẤM HAY ĐÁ KHỐI).